16-01-2010, 04:04 PM
Bạc acetylua Ag2C2
Loại này dễ điều chế nhất mà lại nổ to. Khi cho C2H2 vào DD AgNO3 sẽ thu kết tủa, do hình thành Bạc acetylua Ag2C2, vì trong CTCT có liên kết 3, loại này cực kì kém bền, khi chịu tác động của 1 tác nhân như va chạm, nhiệt... nó sẽ phân hủy, liên kết không bền bị bẻ gãy, sinh nhiệt lớn, làm cho lớp không khí xung quanh giãn nở tức thời, gây tiếng nổ. Khác với các loại khác ở chổ, sản phẩm nổ không hề có khí, chỉ cho ra Ag và C.
Điều chế:
Chuẩn bị dd AgNO3 , điều chế 1 ít C2H2 (cái này khỏi phải hướng dẫn), sau đó lắp bộ dụng cụ để cho C2H2 sục vào dd AgNO3, sau 1 lúc, sẽ thấy kết tủa, cho đến khi nào thấy khôngkết tủa nữa thì thôi.
Lưu ý: không được dùng que nghiền nhỏ kết tủa, nó có thể nổ ngay cả ở dưới nước. Sau khi đã thu được kết tủa, ta lọc lấy, sau đó đun cách thủy để cho thật khô, khi khô, loại này cực nhạy, nên tuyệt đối không làm gì mạnh tay. 1 mẩu nhỏ bằng con kiến nổ thôi cũng đủ làm giật mình. Loại này có thể kích nổ bằng lửa, đóm, hoặc tia lửa điện, đập cũng nổ, ... Nên nhớ nếu thử thì lấy 1 mẩu thật nhỏ thôi, khi thử nghiệm phải để xa phần còn lại, không thì sẽ bị nổ dây chuyền.
--------------------------------------------------------------------------------
Thủy ngân fulminate Hg(ONC)2
Tốc độ nổ 3000 - 4500m/s tùy thuộc vào tỷ khối, thường dùng trong kíp nổ, hạt lửa, ... nhưng giờ ít ai dùng vì không an toàn. Độ nhạy khá cao, va chạm, nhiệt, ma sát, tia lửa điện .... đều có thể làm nó phát nổ. Khi nổ, sẽ tạo ra 1 lớp thủy ngân mỏng bám lên bề mặt.
Chuẩn bị:
Hg 2 gam, Hg em dùng ở đây là sản phẩm điều chế từ nhôm và dd HgCl2 đậm đặc, nhôm lấy từ móc áo, khi cho nhôm vào dd, nó sẽ sủi bọt và giải phóng Hg, hg sẽ bám vào bề mặt miếng nhôm, dùng pipet hút ra.
20 ml HNO3 68% ( loại này mua ở Tô Hiến Thành, hàng Cn 10 000/ kg) lấy khoảng
30ml Rượu etylic, loại 98 - 99,5 độ
Điều chế:
đầu tiên ta cho Hg vào HNO3 để dược 1 hỗn hợp Hg nitrat và HNO3
Hg + 3 OHNO2 => HgNO3 + OHNO2 + NO2
chú ý: phản ứng này cho NO2, nên cẩn thận
sau đó ta cho hỗn hợp này vào tủ lạnh làm lạnh xuống khoảng 0-5 độ C
Phần rượu ta đun nóng (70 độ C), sau đó cho vào hỗn hợp acid - nitrat đã làm lạnh, nhớ là cho rượu vào acid, không làm ngược lại.
sau khoảng 20 -30 giây, phản ứng sẽ xày ra mãnh liệt, sau khi phản ứng xong, lọc lấy kết tủa và rửa bằng dd NaHCO3. đun cách thủy để làm khô kết tủa.
[FONT=Trebuchet MS]--------------------------------------------------------------------------------
RDX (Royal Demolition eXplosive)
Còn gọi là cyclonite hay hexogen - cyclotrimethylenetrinitramin, là một loại chất nổ cực mạnh thường được sử dụng trong quân đội, mạnh hơn TNT với tốc độ nổ 8500m/s, so với 6900m/s của TNT, loại này khá an toàn và dễ bảo quản, là thành phần chính của các loại chất nổ hỗn hợp như C-1,C-2, C-3, C-4, semtex, ...
RDX còn dược dùng làm chất nổ mồi để kích nổ bom hạt nhân.
Xin giới thiệu 2 cách điều chế phổ biến, cách thứ nhất dùng hexamin mà HNO3, cách thứ 2 dùng acetic anhidric, ammoninitrat va parafomadehyd, cách thứ 2 này không nên thử vì rất độc hại, trong quá trình điều chế hơi acid acetic bay nồng nặc làm bạn cay mắt và không thở được, khó kiểm soát được phản ứng, vả lại cách này chỉ chỉ thực hiện tốt khi làm mỗi lần 1 ít thì hiệu suất mới cao, thực tế thì chỉ có thể làm theo cách thứ 2 vì không có hexamin.
RDX - C3H6N6O6, cấutạo vòng gồm 3 nguyên tử C xen kẽ 3 nguyên tử N, 3 gốc NO2 cắm trên 3 N
Hóa chất:
acetone
acetic anhridric
amoni nitrat
axitnitric
paraformadehyd
Hóa cụ:
cốc thủy tinh
ống thủy tinh
ống đong
nhiệt kế
Cách 1:
Cho 335 mL axít nitric 98% (cái này hơi khó kiếm, nó gọi là fuming nitric acid )vào cốc 500-mL , làm lạnh axít xuống dưới 15 °C bằng cách đặt cốc vào khay đá. Khay đá là một dụng cụ rất cần thiết khi điều chế chất nổ, hiểu nôm na là 1 cái bát trong đó chứa nước đá và muối). Cho từ từ 75 g methenamine (hexamin) vào cốc axít (cho từng ít một) vừa cho vừa khuấy đều. trong khi cho methenamine. Phải luôn giữ nhiệt độ từ 20 – 30 độ C. khi toàn bộ hexamin đã hòa tan hết, từ từ đun nóng cốc axít tới 55 độ C và vẫn khuấy đều, giữ nhiệt độ từ 50 – 55 đô C trong 5 phút, không ngừng khuấy. sau đó, hạ nhiệt độ xuống 20 độ C và để yên trong 15 phút. Bây giờ hãy cho đổ vào cốc axít khoảng gần 1 lít nước lạnh (5-10 độ C), sẽ thấy tinh thể RDX xuất hiện, hãy để yên trong vài giờ để thu được nhiều tinh thể nhất.
Bây giờ, chúng ta phải trung hòa lượng axít còn dư. Lọc và gạn bỏ bớt phần dung dịch trong cốc, nhớ giữ lại các tinh thể. Sau đó cho vào cốc 1 lít dd natri bicacbonat 5%. Sẽ thấy sủi bọt dữ dội, vì vậy hãy đổ từ từ. dùg vải hoặc giấy lọc lọc lấy tinh thể RDX, tiếp tục rửa lại tinh thể bằng nước lạnh, rồi lại rửa bằng dd natri bicacbonnat 1 lần nữa. và cuối cùng lại rửa bằng nước. Giờ thì đem chúng đi phơi khô là dùng được. Nhớ là phải có kíp nổ, đốt không thì nó không nổ đâu.
Cách thứ 2:
Cho 260 mL acetic anhidric vào cốc 1 lít và cho vào đó 105 g amoni nitrat đã nghiền nhuyễn, khuấy đều. Đun nóng dung dịch này tới 70 °C rồi ngưng đun. Thật từ từ cho vào đó 38 g parafomadehid, sau khoảng một phút, phản ứng bắt đầu (hãy đeo khẩu trang vì có khí độc sinh ra). Vì vậy hãy cho thật từ từ nếu không muốn chết. sau khi cho hết parafomadehid, đổ vào cốc 500 ml nước lạnh để làm kết tinh RDX. Lọc dung dịch để lấy RDX, sau đó rửa các tinh thể bằng nước nóng. Phơi khô và sử dụng. Để có sản phẩm tinh khiết hơn, dùng aceton hòa tan RDX , sau đó lại cho nước lạnh vào và lọc lại 1 lần nữa.
Theo kinh nghiệm thì cách dùng acetic anhydric là cực kì độc hại và có các nhược điểm sau:
Chỉ làm mỗi lần 1 ít, có nghĩa là tỉ lệ vẫn như vậy, nhưng lượng hóa chất thì giảm đi từ 5-6 lần
Chỉ đạt hiệu suất tương đối khá khi làm mỗi lần 1 lượng nhỏ, nếu làm nhiều trong 1 lần nguy cơ thất bại là rất cao
Trong quá trình điều chế, hơi acid acetic bay ra sẽ làm cho bạn cay mắt và khó thở, khó kiểm soát nhiệt độ phản ứng.
Chú ý: loại này là chất nổ mạnh nên để có thể nổ, ta phải dùng 1 kíp nổ, đốt thì nó chỉ cháy sáng thôi, kíp nổ có thê làm từ HG fulminate ở trên.
--------------------------------------------------------------------------------
Nito triodua.
Đây là 1 hợp chất kém bền, nó dễ dàng bị phân hủy... điều chế thì cực kì dễ.
Chuẩn bị dung dịch amoniac, một ít tinh thể Iod (I2), phải là tinh thể, không xài dung dịch
ta chỉ cần cho I2 vào đ NH3 vào khuấy dều, sẽ thấy suat hiện kết tủa den, khuấy cho dến khi thu dược nhiều kết tủa nhất, sau dó để yên khoảng 15 phút, dùng 1 tờ giấy lọc và lọc kết tủa ra, phơi khô.
2NI3 --> N2 + 3I2 --> BOOM
Lưu ý: loại này "siêu nhạy", lông gà chạm vào cũng nổ, nên chỉ di chuyển nó khi còn ẩm mà thôi, nó mà khô rồi thì rất khó mang di chỗ khác. Chỉ chạm nhẹ là nổ
Tannerite
Một loại chất nổ thuộc dòng binary, là những loại chất nổ mạnh mà thành phần là một hỗn hợp các chất, chỉ khi trộn lại với nhau, nó mới trở thành chất nổ vd ANFO (Amoninitrat & diesel), chú ý đây không phải các loại như thuốc súng hay thuốc pháo, nó nổ chứ không cháy, và dĩ nhiên cần kíp nổ để kích nổ.
Ứng dụng chủ yếu của tannerite là dùng trong các mục tiêu nổ ở trường tập bắn, đặc điểm của TE là có thể bị kích nổ bởi sóng xung kích gây ra khi bị một viên đạn súng trường bắn vào, khi bị bắn trúng, nó sẽ nổ, khi TE phát nổ, nó sinh ra một cột khói hơi nước, giúp các xạ thủ biết được mình bắn trúng mục tiêu hay không, ngoài ra nó còn được dùng như 1 loại chất nổ mạnh thông thường.
Thành phần của TE gồm:
Chất oxi hóa (oxiddizer), là hỗn hợp gồm amoninitrat, NH4NO3 75% và amoni perclorat NH4ClO4 25%
Chất nhạy hoá: làm tăng độ mạnh và tăng đô nhạy nổ: GỒm bột nhôm 95% và ZrH2 5%
Để điều chế, chỉ việc trộn 9 phần chất oxi hoá với 1 phần chất nhạy hoá theo khối lượng.
Lưu ý: chỉ trộn ngay trước khi sử dụng.
[FONT=Trebuchet MS]--------------------------------------------------------------------------------
UN
Một loại chất nổ khá mạnh, tuy không mạnh bằng các loại như TNT nhưng nó có 1 ưu điểm là dễ điều chế với số lượng lớn nên được khủng bố ưa chuộng.
2 nguyên liệu chính là Ure (NH2)2CO và HNO3 , Ure mua ở cửa hàng phân hóa học, rất rẻ. HNO3 nên dùng loại trên 50%
Cách làm như sau:
Hòa tan Ure vào nước cho đến khi bão hòa, sau đó nhỏ từ từ HNO3 vào, sẽ thấy kết tủa trắng, đó là UN, sau khi cho hết HNO3 vào, để yên trong vòng vài tiếng trong tủ lạnh để thu được nhiều kết tủa nhất, sau đó lọc ra, rửa bằng nước và đun cách thủy cho khô.
Lưu ý: Loại này không bền, gặp nhiệt độ nóng ẩm sẽ bị phân huỷ, vì vậy, ta chỉ nên lọc và làm khô trước khi sử dụng. Đây là một loại chất nổ thuộc dòng secondary nên khó kích nổ, ta phải dùng kíp Số 8, và cho vào ống sắt để kích nổ.
Có thể điều chế UN từ nước tiểu nếu ta không có Ure.
Để tăng độ nhạy và độ mạnh, ta trộn 4 phần UN với 1 phần bột nhôm loại mịn.
--------------------------------------------------------------------------------
Nitrôglyxêrin
Là một chất lỏng không mầu, nhớt, tạo thành từ phản ứng nitơrát hóa glyxêrin, rất dễ nổ. Được sử dụng trong công nghiệp xây dựng và phá hủy, hoặc dùng làm chất tạo dẻo cho một số chất rắn. Nó cũng được dùng trong ngành dược, làm thuốc dãn mạch, hạ huyết áp.
Điều chế:
Cách 1: Nitrôglyxêrin có thể được điều chế bằng nitrát hóa glycerin. Theo cách này, trộn Axít sulfuric và Axít nitric hoàn toàn đặc với glycerin theo tỷ lệ 50%, 40%, 10%. Đầu tiên trộn hai axít trước, rồi làm lạnh đến 10°C, đặt hỗn hợp trong có nước đá đang tan rồi trộn glycerin từ từ vào. Không được để hỗn hợp phản ứng nóng quá vì nó nổ, cũng không được để lạnh quá nếu không phản ứng dừng. Khi phản ứng xong, nitrôglyxêrin màu vàng nhạt nổi lên, đổ từ từ vào chậu nước lớn, nitrôglyxêrin chìm xuống đáy chậu. Tách nó ra và trung hòa dần bằng muối kiềm, như natri cacbonat.
Cách 2: trộn nó với axít sunfuarích trước, hỗn hợp nóng lên và dược làm lạnh trước, đến đây thì có thể đổ nhanh axít nitơrích vào. Tuy nhiên, vẫn phải cẩn thận không dung dịch bắn ra. Cũng có thẻ trộn thêm glycerin thật chậm vào. Sau khi phản ứng nitrát hóa glycerin diễn ra, nitrôglyxêrin nổi lên trên, phương pháp này điều chế được chất sạch. Đợi có thể đến một ngày hay ít hơn, nhưng kéo dài thời gian ngâm có thể làm axít phân hủy hoặc kích nổ nitrôglyxêrin, tuy sau này chỉ xảy ra ở các mẻ lớn. Nếu có màu sữa thì chỉ có thể là nước, từ điểm đó lên trên. Phương pháp này dùng từ thời Alfred Nobel, nhưng không phải của ông.
Lưu ý cẩn thận:
Khi ở dạng nguyên chất, nitroglycerin là một chấ[FONT=Trebuch
Loại này dễ điều chế nhất mà lại nổ to. Khi cho C2H2 vào DD AgNO3 sẽ thu kết tủa, do hình thành Bạc acetylua Ag2C2, vì trong CTCT có liên kết 3, loại này cực kì kém bền, khi chịu tác động của 1 tác nhân như va chạm, nhiệt... nó sẽ phân hủy, liên kết không bền bị bẻ gãy, sinh nhiệt lớn, làm cho lớp không khí xung quanh giãn nở tức thời, gây tiếng nổ. Khác với các loại khác ở chổ, sản phẩm nổ không hề có khí, chỉ cho ra Ag và C.
Điều chế:
Chuẩn bị dd AgNO3 , điều chế 1 ít C2H2 (cái này khỏi phải hướng dẫn), sau đó lắp bộ dụng cụ để cho C2H2 sục vào dd AgNO3, sau 1 lúc, sẽ thấy kết tủa, cho đến khi nào thấy khôngkết tủa nữa thì thôi.
Lưu ý: không được dùng que nghiền nhỏ kết tủa, nó có thể nổ ngay cả ở dưới nước. Sau khi đã thu được kết tủa, ta lọc lấy, sau đó đun cách thủy để cho thật khô, khi khô, loại này cực nhạy, nên tuyệt đối không làm gì mạnh tay. 1 mẩu nhỏ bằng con kiến nổ thôi cũng đủ làm giật mình. Loại này có thể kích nổ bằng lửa, đóm, hoặc tia lửa điện, đập cũng nổ, ... Nên nhớ nếu thử thì lấy 1 mẩu thật nhỏ thôi, khi thử nghiệm phải để xa phần còn lại, không thì sẽ bị nổ dây chuyền.
--------------------------------------------------------------------------------
Thủy ngân fulminate Hg(ONC)2
Tốc độ nổ 3000 - 4500m/s tùy thuộc vào tỷ khối, thường dùng trong kíp nổ, hạt lửa, ... nhưng giờ ít ai dùng vì không an toàn. Độ nhạy khá cao, va chạm, nhiệt, ma sát, tia lửa điện .... đều có thể làm nó phát nổ. Khi nổ, sẽ tạo ra 1 lớp thủy ngân mỏng bám lên bề mặt.
Chuẩn bị:
Hg 2 gam, Hg em dùng ở đây là sản phẩm điều chế từ nhôm và dd HgCl2 đậm đặc, nhôm lấy từ móc áo, khi cho nhôm vào dd, nó sẽ sủi bọt và giải phóng Hg, hg sẽ bám vào bề mặt miếng nhôm, dùng pipet hút ra.
20 ml HNO3 68% ( loại này mua ở Tô Hiến Thành, hàng Cn 10 000/ kg) lấy khoảng
30ml Rượu etylic, loại 98 - 99,5 độ
Điều chế:
đầu tiên ta cho Hg vào HNO3 để dược 1 hỗn hợp Hg nitrat và HNO3
Hg + 3 OHNO2 => HgNO3 + OHNO2 + NO2
chú ý: phản ứng này cho NO2, nên cẩn thận
sau đó ta cho hỗn hợp này vào tủ lạnh làm lạnh xuống khoảng 0-5 độ C
Phần rượu ta đun nóng (70 độ C), sau đó cho vào hỗn hợp acid - nitrat đã làm lạnh, nhớ là cho rượu vào acid, không làm ngược lại.
sau khoảng 20 -30 giây, phản ứng sẽ xày ra mãnh liệt, sau khi phản ứng xong, lọc lấy kết tủa và rửa bằng dd NaHCO3. đun cách thủy để làm khô kết tủa.
[FONT=Trebuchet MS]--------------------------------------------------------------------------------
RDX (Royal Demolition eXplosive)
Còn gọi là cyclonite hay hexogen - cyclotrimethylenetrinitramin, là một loại chất nổ cực mạnh thường được sử dụng trong quân đội, mạnh hơn TNT với tốc độ nổ 8500m/s, so với 6900m/s của TNT, loại này khá an toàn và dễ bảo quản, là thành phần chính của các loại chất nổ hỗn hợp như C-1,C-2, C-3, C-4, semtex, ...
RDX còn dược dùng làm chất nổ mồi để kích nổ bom hạt nhân.
Xin giới thiệu 2 cách điều chế phổ biến, cách thứ nhất dùng hexamin mà HNO3, cách thứ 2 dùng acetic anhidric, ammoninitrat va parafomadehyd, cách thứ 2 này không nên thử vì rất độc hại, trong quá trình điều chế hơi acid acetic bay nồng nặc làm bạn cay mắt và không thở được, khó kiểm soát được phản ứng, vả lại cách này chỉ chỉ thực hiện tốt khi làm mỗi lần 1 ít thì hiệu suất mới cao, thực tế thì chỉ có thể làm theo cách thứ 2 vì không có hexamin.
RDX - C3H6N6O6, cấutạo vòng gồm 3 nguyên tử C xen kẽ 3 nguyên tử N, 3 gốc NO2 cắm trên 3 N
Hóa chất:
acetone
acetic anhridric
amoni nitrat
axitnitric
paraformadehyd
Hóa cụ:
cốc thủy tinh
ống thủy tinh
ống đong
nhiệt kế
Cách 1:
Cho 335 mL axít nitric 98% (cái này hơi khó kiếm, nó gọi là fuming nitric acid )vào cốc 500-mL , làm lạnh axít xuống dưới 15 °C bằng cách đặt cốc vào khay đá. Khay đá là một dụng cụ rất cần thiết khi điều chế chất nổ, hiểu nôm na là 1 cái bát trong đó chứa nước đá và muối). Cho từ từ 75 g methenamine (hexamin) vào cốc axít (cho từng ít một) vừa cho vừa khuấy đều. trong khi cho methenamine. Phải luôn giữ nhiệt độ từ 20 – 30 độ C. khi toàn bộ hexamin đã hòa tan hết, từ từ đun nóng cốc axít tới 55 độ C và vẫn khuấy đều, giữ nhiệt độ từ 50 – 55 đô C trong 5 phút, không ngừng khuấy. sau đó, hạ nhiệt độ xuống 20 độ C và để yên trong 15 phút. Bây giờ hãy cho đổ vào cốc axít khoảng gần 1 lít nước lạnh (5-10 độ C), sẽ thấy tinh thể RDX xuất hiện, hãy để yên trong vài giờ để thu được nhiều tinh thể nhất.
Bây giờ, chúng ta phải trung hòa lượng axít còn dư. Lọc và gạn bỏ bớt phần dung dịch trong cốc, nhớ giữ lại các tinh thể. Sau đó cho vào cốc 1 lít dd natri bicacbonat 5%. Sẽ thấy sủi bọt dữ dội, vì vậy hãy đổ từ từ. dùg vải hoặc giấy lọc lọc lấy tinh thể RDX, tiếp tục rửa lại tinh thể bằng nước lạnh, rồi lại rửa bằng dd natri bicacbonnat 1 lần nữa. và cuối cùng lại rửa bằng nước. Giờ thì đem chúng đi phơi khô là dùng được. Nhớ là phải có kíp nổ, đốt không thì nó không nổ đâu.
Cách thứ 2:
Cho 260 mL acetic anhidric vào cốc 1 lít và cho vào đó 105 g amoni nitrat đã nghiền nhuyễn, khuấy đều. Đun nóng dung dịch này tới 70 °C rồi ngưng đun. Thật từ từ cho vào đó 38 g parafomadehid, sau khoảng một phút, phản ứng bắt đầu (hãy đeo khẩu trang vì có khí độc sinh ra). Vì vậy hãy cho thật từ từ nếu không muốn chết. sau khi cho hết parafomadehid, đổ vào cốc 500 ml nước lạnh để làm kết tinh RDX. Lọc dung dịch để lấy RDX, sau đó rửa các tinh thể bằng nước nóng. Phơi khô và sử dụng. Để có sản phẩm tinh khiết hơn, dùng aceton hòa tan RDX , sau đó lại cho nước lạnh vào và lọc lại 1 lần nữa.
Theo kinh nghiệm thì cách dùng acetic anhydric là cực kì độc hại và có các nhược điểm sau:
Chỉ làm mỗi lần 1 ít, có nghĩa là tỉ lệ vẫn như vậy, nhưng lượng hóa chất thì giảm đi từ 5-6 lần
Chỉ đạt hiệu suất tương đối khá khi làm mỗi lần 1 lượng nhỏ, nếu làm nhiều trong 1 lần nguy cơ thất bại là rất cao
Trong quá trình điều chế, hơi acid acetic bay ra sẽ làm cho bạn cay mắt và khó thở, khó kiểm soát nhiệt độ phản ứng.
Chú ý: loại này là chất nổ mạnh nên để có thể nổ, ta phải dùng 1 kíp nổ, đốt thì nó chỉ cháy sáng thôi, kíp nổ có thê làm từ HG fulminate ở trên.
--------------------------------------------------------------------------------
Nito triodua.
Đây là 1 hợp chất kém bền, nó dễ dàng bị phân hủy... điều chế thì cực kì dễ.
Chuẩn bị dung dịch amoniac, một ít tinh thể Iod (I2), phải là tinh thể, không xài dung dịch
ta chỉ cần cho I2 vào đ NH3 vào khuấy dều, sẽ thấy suat hiện kết tủa den, khuấy cho dến khi thu dược nhiều kết tủa nhất, sau dó để yên khoảng 15 phút, dùng 1 tờ giấy lọc và lọc kết tủa ra, phơi khô.
2NI3 --> N2 + 3I2 --> BOOM
Lưu ý: loại này "siêu nhạy", lông gà chạm vào cũng nổ, nên chỉ di chuyển nó khi còn ẩm mà thôi, nó mà khô rồi thì rất khó mang di chỗ khác. Chỉ chạm nhẹ là nổ
Tannerite
Một loại chất nổ thuộc dòng binary, là những loại chất nổ mạnh mà thành phần là một hỗn hợp các chất, chỉ khi trộn lại với nhau, nó mới trở thành chất nổ vd ANFO (Amoninitrat & diesel), chú ý đây không phải các loại như thuốc súng hay thuốc pháo, nó nổ chứ không cháy, và dĩ nhiên cần kíp nổ để kích nổ.
Ứng dụng chủ yếu của tannerite là dùng trong các mục tiêu nổ ở trường tập bắn, đặc điểm của TE là có thể bị kích nổ bởi sóng xung kích gây ra khi bị một viên đạn súng trường bắn vào, khi bị bắn trúng, nó sẽ nổ, khi TE phát nổ, nó sinh ra một cột khói hơi nước, giúp các xạ thủ biết được mình bắn trúng mục tiêu hay không, ngoài ra nó còn được dùng như 1 loại chất nổ mạnh thông thường.
Thành phần của TE gồm:
Chất oxi hóa (oxiddizer), là hỗn hợp gồm amoninitrat, NH4NO3 75% và amoni perclorat NH4ClO4 25%
Chất nhạy hoá: làm tăng độ mạnh và tăng đô nhạy nổ: GỒm bột nhôm 95% và ZrH2 5%
Để điều chế, chỉ việc trộn 9 phần chất oxi hoá với 1 phần chất nhạy hoá theo khối lượng.
Lưu ý: chỉ trộn ngay trước khi sử dụng.
[FONT=Trebuchet MS]--------------------------------------------------------------------------------
UN
Một loại chất nổ khá mạnh, tuy không mạnh bằng các loại như TNT nhưng nó có 1 ưu điểm là dễ điều chế với số lượng lớn nên được khủng bố ưa chuộng.
2 nguyên liệu chính là Ure (NH2)2CO và HNO3 , Ure mua ở cửa hàng phân hóa học, rất rẻ. HNO3 nên dùng loại trên 50%
Cách làm như sau:
Hòa tan Ure vào nước cho đến khi bão hòa, sau đó nhỏ từ từ HNO3 vào, sẽ thấy kết tủa trắng, đó là UN, sau khi cho hết HNO3 vào, để yên trong vòng vài tiếng trong tủ lạnh để thu được nhiều kết tủa nhất, sau đó lọc ra, rửa bằng nước và đun cách thủy cho khô.
Lưu ý: Loại này không bền, gặp nhiệt độ nóng ẩm sẽ bị phân huỷ, vì vậy, ta chỉ nên lọc và làm khô trước khi sử dụng. Đây là một loại chất nổ thuộc dòng secondary nên khó kích nổ, ta phải dùng kíp Số 8, và cho vào ống sắt để kích nổ.
Có thể điều chế UN từ nước tiểu nếu ta không có Ure.
Để tăng độ nhạy và độ mạnh, ta trộn 4 phần UN với 1 phần bột nhôm loại mịn.
--------------------------------------------------------------------------------
Nitrôglyxêrin
Là một chất lỏng không mầu, nhớt, tạo thành từ phản ứng nitơrát hóa glyxêrin, rất dễ nổ. Được sử dụng trong công nghiệp xây dựng và phá hủy, hoặc dùng làm chất tạo dẻo cho một số chất rắn. Nó cũng được dùng trong ngành dược, làm thuốc dãn mạch, hạ huyết áp.
Điều chế:
Cách 1: Nitrôglyxêrin có thể được điều chế bằng nitrát hóa glycerin. Theo cách này, trộn Axít sulfuric và Axít nitric hoàn toàn đặc với glycerin theo tỷ lệ 50%, 40%, 10%. Đầu tiên trộn hai axít trước, rồi làm lạnh đến 10°C, đặt hỗn hợp trong có nước đá đang tan rồi trộn glycerin từ từ vào. Không được để hỗn hợp phản ứng nóng quá vì nó nổ, cũng không được để lạnh quá nếu không phản ứng dừng. Khi phản ứng xong, nitrôglyxêrin màu vàng nhạt nổi lên, đổ từ từ vào chậu nước lớn, nitrôglyxêrin chìm xuống đáy chậu. Tách nó ra và trung hòa dần bằng muối kiềm, như natri cacbonat.
Cách 2: trộn nó với axít sunfuarích trước, hỗn hợp nóng lên và dược làm lạnh trước, đến đây thì có thể đổ nhanh axít nitơrích vào. Tuy nhiên, vẫn phải cẩn thận không dung dịch bắn ra. Cũng có thẻ trộn thêm glycerin thật chậm vào. Sau khi phản ứng nitrát hóa glycerin diễn ra, nitrôglyxêrin nổi lên trên, phương pháp này điều chế được chất sạch. Đợi có thể đến một ngày hay ít hơn, nhưng kéo dài thời gian ngâm có thể làm axít phân hủy hoặc kích nổ nitrôglyxêrin, tuy sau này chỉ xảy ra ở các mẻ lớn. Nếu có màu sữa thì chỉ có thể là nước, từ điểm đó lên trên. Phương pháp này dùng từ thời Alfred Nobel, nhưng không phải của ông.
Lưu ý cẩn thận:
Khi ở dạng nguyên chất, nitroglycerin là một chấ[FONT=Trebuch
chẳng có gí khiến tôi bất lực cho bằng nhụt chí
chẳng có gì khiến tôi học dốt cho bằng lười biếng
chẳng có gì khiến tôi mền lòng cho bằng ... có gái đẹp đứng trước mặt
:y171::y171::y171: